Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái: Từ “khát vọng hạnh phúc“ đến hành trình trở thành “tỉnh xanh kiểu mẫu“

Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái: Từ “khát vọng hạnh phúc“ đến hành trình trở thành “tỉnh xanh kiểu mẫu“

Nguyễn Thành Công
Nguyễn Thành Công Congnguyenthanhyb@gmail.com
Thứ Ba, 26/09/2023 - 06:06

 

- Thưa ông, vị trí địa lý tạo cho tỉnh Yên Bái thuận lợi quan trọng để phát triển, trở thành trung tâm kết nối vùng. Tỉnh Yên Bái đã và đang làm gì để đưa tư duy này vào chiến lược phát triển của tỉnh?

Ông Trần Huy Tuấn: Đầu tiên, tỉnh Yên Bái xác định tư duy đúng đắn về lợi thế vị trí địa lý, đó là cửa ngõ vùng Tây Bắc, nằm trên trung điểm hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; cùng với mạng lưới giao thông đa dạng (đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường bộ, đường sắt, đường thủy) kết nối liên hoàn, nhanh chóng với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, sân bay quốc tế Nội Bài, cửa khẩu quốc tế Lào Cai, cảng biển quốc tế Hải Phòng, là những cơ hội lớn, tạo thuận lợi cho tỉnh phát triển.

Thứ hai, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chương trình hành động số 128-CTr/TU ngày 27/9/2022). Theo đó, tỉnh Yên Bái xác định quan điểm phát triển là khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý để phát triển hạ tầng giao thông kết nối vùng, liên vùng; tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững theo hướng “Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”.

 

Thứ ba, về nhiệm vụ, giải pháp phát triển trong thời gian tới, tỉnh Yên Bái xác định tập trung hoàn thiện thể chế; đẩy mạnh phát triển liên kết vùng. Tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trọng điểm, có sức lan toả, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trọng tâm là hạ tầng giao thông, thông tin, viễn thông, đô thị, khu, cụm công nghiệp. Phối hợp đầu tư mới, nâng cấp, mở rộng một số tuyến, như: cao tốc Nội Bài - Lào Cai; đường nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai với Hà Giang; đường sắt điện khí hóa Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; đường thủy nội địa Việt Trì - Yên Bái - Lào Cai; thu hút đầu tư, vận hành, khai thác dịch vụ hàng không dân dụng sân bay Yên Bái, tạo động lực thúc đẩy phát triển.

 

- Đã có một thời, tỉnh Yên Bái đặt nặng các mục tiêu phát triển công nghiệp, khoáng sản, thủy điện,... nhưng đều không khả thi và sau đó, tỉnh đã định vị lại chiến lược, hướng đến việc hoàn thiện hạ tầng để phát triển kinh tế xanh - phát triển kinh tế dựa vào thiên nhiên và văn hóa?

Ông Trần Huy Tuấn: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra mục tiêu phát triển theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc”, quyết tâm đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm tỉnh phát triển hàng đầu của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2030. Tỉnh Yên Bái đã xác định một trong ba đột phá chiến lược phát triển là: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, trọng tâm là hạ tầng giao thông, thông tin, viễn thông, đô thị, khu, cụm công nghiệp, liên kết nông thôn với đô thị, công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp và liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu phát triển”.

Theo đó, Yên Bái đã xác định phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm phù hợp, hài hòa giữa kinh tế - xã hội - môi trường (không đặt nặng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trong đó chú trọng giữ gìn, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái đầu nguồn, bảo vệ thiên nhiên,...). Một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể phát triển hạ tầng trong thời gian tới là:

Thứ nhất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trọng điểm, có sức lan tỏa, kết nối phát triển vùng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trọng tâm là hạ tầng giao thông, đô thị kết nối nông thôn, thông tin, viễn thông, khu, cụm công nghiệp.

 

Thứ hai, đẩy mạnh các hình thức xã hội hóa đầu tư, huy động tối đa các nguồn vốn của các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp, hạ tầng thương mại, dịch vụ, du lịch,... thực hiện hiệu quả hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Tập trung nguồn lực đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên các công trình, dự án trọng điểm.

Thứ ba, hoàn thiện, quản lý chặt chẽ quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch nông thôn mới với tầm nhìn dài hạn; thực hiện hiệu quả chương trình phát triển đô thị theo hướng đồng bộ cả về kinh tế, xã hội, kiến trúc cảnh quan, môi trường và chất lượng sống của người dân; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phù hợp với xu hướng phát triển đô thị thông minh, xanh, bản sắc, thích ứng với biến đổi khí hậu; gắn phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới; lấy đô thị là động lực dẫn dắt phát triển nông thôn, đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa; tập trung nguồn lực đầu tư phát triển 02 đô thị trọng điểm, tiên phong, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, trở thành động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển.

- Trong những năm qua, khi thay đổi tư duy phát triển, ông đánh giá nguồn lực, động lực và sức mạnh của tỉnh đã thay đổi như thế nào?

Ông Trần Huy Tuấn: Tỉnh Yên Bái có diện tích tự nhiên trên 6.892,7km2, tỷ lệ che phủ rừng trên 63%; điều kiện thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nông, lâm nghiệp, dược liệu dưới tán rừng, với các vùng sản xuất tập trung chuyên canh chủ lực như: Quế, măng tre Bát Độ, sơn tra, chè,... tạo thuận lợi phát triển ngành chế biến nông, lâm sản theo chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, tỉnh Yên Bái có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng về chủng loại với nhiều mỏ, điểm mỏ, trữ lượng khá lớn, như: Đá vôi trắng, quặng sắt, vật liệu xây dựng thông thường, kaolin, felspat,... phù hợp phát triển công nghiệp chế biến khoáng sản, chế biến vật liệu xây dựng mới.

Tỉnh Yên Bái đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” với nguồn lao động trẻ dồi dào, năng động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 66%, là nguồn cung cấp lực lượng lao động dồi dào cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Tỉnh Yên Bái tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả việc kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách nhà nước; cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng tiết kiệm, cắt giảm tối đa các nhiệm vụ chi chưa thật sự cần thiết để giảm chi thường xuyên, dành nguồn lực tăng chi cho đầu tư phát triển. Qua đó, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (như: Điện, khu, cụm công nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ,...), đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông đã chuyển mình rõ nét, đồng bộ, kết nối giữa thành thị với nông thôn, liên kết vùng, kết nối với các tỉnh trong khu vực làm thay đổi diện mạo đô thị, nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững của địa phương.

Một số tuyến đường đã và đang được hình thành, như: đường Âu Cơ (nối trung tâm TP. Yên Bái với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai); đường nối Quốc lộ 32C với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; cầu Bách Lẫm; cầu Tuần Quán; cầu Giới Phiên; đường Đường nối Quốc lộ 37, Quốc lộ 32C với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; Đường nối Quốc lộ 32C với Quốc lộ 37 và đường Yên Ninh, TP. Yên Bái; đường Trạm Tấu (Yên Bái) - Bắc Yên (Sơn La); Đường nối Quốc lộ 32 (Sơn Thịnh, Văn Chấn) với cao tốc Nội Bài - Lào Cai (IC14); Đường nối Quốc lộ 32 (Gia hội, Văn Chấn) với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (IC15); Đường kết nối Mường La (Sơn La), Than Uyên, Tân Uyên (Lai Châu), Mù Cang Chải, Văn Chấn, Văn Yên (Yên Bái) với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (IC15); đường Trạm Tấu (Yên Bái) - Bắc Yên (Sơn La); đường Lục Yên (Yên Bái) - Bảo Yên (Lào Cai)...

Nhìn lại nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ tỉnh, tỉnh Yên Bái đã đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực. Theo đánh giá sơ bộ, tỉnh đã hoàn thành 18/19 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội, trong đó có 6/19 chỉ tiêu hoàn thành vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội, còn 1/19 chỉ tiêu cần tập trung chỉ đạo quyết liệt và có giải pháp tích cực để phấn đấu hoàn thành.

Kinh tế - xã hội phát triển khá toàn diện, từng bước hiện thực hóa mục tiêu đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt khá, bình quân từ đầu nhiệm kỳ đạt 7,86%/năm, đưa Yên Bái đứng thứ 3/14 tỉnh trong vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, cao hơn mục tiêu Nghị quyết Đại hội (7,5%/năm). 6 tháng đầu năm 2023, GRDP ước đạt 6,59%, Yên Bái đứng thứ 5/14 tỉnh trong vùng.

Thu ngân sách nhà nước vượt cao so với dự toán Trung ương giao, tăng đều qua các năm. Năm 2023 phấn đấu đạt 5.200 tỷ đồng, bằng 74,3% mục tiêu đến 2025 theo Nghị quyết Đại hội. Tổng vốn đầu tư phát triển từ đầu nhiệm kỳ đến nay ước đạt 44.880 tỷ đồng, bằng 44,88% mục tiêu Nghị quyết. Diện mạo đô thị, nông thôn thay đổi theo hướng khang trang, hiện đại. Đến hết năm 2022, toàn tỉnh đã có 99/150 xã (chiếm 66%) đạt chuẩn nông thôn mới, bằng 78,5% mục tiêu Nghị quyết, có 3/9 đơn vị hành chính cấp huyện đạt chuẩn hoặc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Văn hóa - xã hội có bước phát triển toàn diện. Chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế không ngừng được nâng lên.

Đặc biệt, các cấp, ngành, địa phương thực hiện đầy đủ chính sách an sinh xã hội; huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững. Đời sống vật chất, tinh thần và đặc biệt là chỉ số hạnh phúc của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Quốc phòng - an ninh được củng cố và tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội.

- Thưa ông, sau khi đến Yên Bái, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nói rằng, “Yên Bái đã khám phá ra những giá trị riêng có của mình và đưa những giá trị đó vào tầm nhìn chiến lược”. Ông có thể khái quát những giá trị riêng có đặc sắc nhất của Yên Bái và việc khai thác các giá trị đó thông qua tầm nhìn chiến lược của tỉnh?

Ông Trần Huy Tuấn: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra mục tiêu phát triển theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc”; bên cạnh đó, ngày 10/2/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đề ra định hướng “Phát triển nông nghiệp vùng trung du và miền núi Bắc Bộ theo hướng hàng hoá, sản xuất an toàn, sạch, hữu cơ, xanh, đặc sản”.

Để cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Trung ương cũng như của tỉnh cho phát triển nhanh, bền vững theo hướng phát triển “Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, Tỉnh ủy Yên Bái đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 20/01/2021 về phát triển ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững giai đoạn 2021- 2025, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp để phát triển các sản phẩm có giá trị cao, tích hợp các giá trị văn hóa, xã hội và môi trường vào sản phẩm, bảo đảm phù hợp với yên cầu của thị trường, gắn với phát triển du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong nông nghiệp.

Kết quả thực hiện năm 2022, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp đạt 5,95%. Cơ cấu nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 22,57% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh (đứng thứ 6/14 tỉnh vùng Trung du miền núi Bắc Bộ). Các chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp cơ bản đạt và vượt so với kế hoạch đã đề ra. Đến nay, tỉnh Yên Bái đã hình thành các vùng sản xuất tập trung và đặc sản hữu cơ, như: Vùng quế trên 81.000ha; sơn tra gần 10.000ha; cây ăn quả gần 10.000ha; dâu tằm trên 1.000ha; diện tích rừng trồng nguyên liệu trên 90.000ha; tre măng Bát Độ trên 5.400ha...; Các sản phẩm đặc sản như: Nếp Tú Lệ 100ha; chè Shan hữu cơ Văn Chấn và Trạm Tấu 1.200ha; dược liệu trên 3.900ha. Đã có 37 sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ, trong đó Chỉ dẫn địa lý 10 sản phẩm, nhãn hiệu chứng nhận 17 sản phẩm, nhãn hiệu tập thể 10 sản phẩm; Đánh giá và cấp 50 mã số vùng trồng cho các sản phẩm chủ lực và cấp chứng chỉ rừng bền vững, chứng nhận sở hữu cho 18.421ha rừng; đưa 4.826 lượt sản phẩm lên sàn thương mại điện tử Voso.vn và Postmart.vn với 8.790 đơn hàng giao dịch thành công; Trên 192 sản phẩm OCOP được công nhận…

Với lợi thế đặc sắc, độc đáo từ thiên nhiên, cảnh quan, thổ nhưỡng, bản sắc văn hoá của trên 30 dân tộc, những thửa ruộng bậc thang huyện Mù Cang Chải, chè cổ thụ Suối Giàng đã tạo nên giá trị tích hợp, lan toả, bền vững. Đây là quan điểm tiếp cận theo tinh thần Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Phát triển nông nghiệp vùng trung du và miền núi Bắc Bộ theo hướng hàng hoá, sản xuất an toàn, sạch, hữu cơ, xanh, đặc sản”. Từ tầm nhìn chiến lược đó, nông nghiệp của tỉnh Yên Bái không chỉ thể hiện ở “tư duy sản xuất” đơn thuần, mà được chuyển đổi thành “tư duy kinh tế”, từ “đơn giá trị” sang “tích hợp đa giá trị”, đây chính là “tối ưu hoá giá trị tăng thêm trên một đơn vị diện tích”. Chính những “nguồn vốn văn hoá”, “nguồn vốn xã hội” phong phú, giàu chiều sâu, đậm bản sắc mới có thể tạo nên điểm nhấn khác biệt cho sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Yên Bái.

Bên cạnh đó, tỉnh đã định hướng phát triển kết hợp nông nghiệp với du lịch trải nghiệm cộng đồng, xúc tiến quảng bá các sản phẩm OCOP tiêu biểu, đặc trưng vùng, miền trên cơ sở phát huy các giá trị vô giá từ nguồn tài nguyên bản địa phong phú. Gửi gắm thông điệp “hội tụ giá trị, lan toả văn hoá”, mỗi sản phẩm nông nghiệp, mỗi dịch vụ du lịch nông nghiệp, nông thôn đều được chuyển tải câu chuyện kể khơi gợi cảm xúc từ hồn đất, hồn núi, hồn rừng, hồn người, nét đẹp văn hoá đặc sắc của tỉnh. Đồng thời, tỉnh đã quan tâm phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững với quan điểm không đánh đổi tăng trưởng bằng sự suy thoái môi trường, làm mất đi đa dạng sinh học, cân bằng tự nhiên. Cùng với giá trị kinh tế từ sản xuất gỗ, rừng còn là không gian bảo tồn các động vật hoang dã, là nơi trải nghiệm cảnh quan thiên nhiên, là nơi gìn giữ tính đa dạng sinh học, hấp thụ khí các-bon. Những giá trị gần như vô hình đó đã tạo ra không gian sống hài hoà, thân thiện giữa con người với thiên nhiên. Cân bằng hệ sinh thái giúp con người được tận hưởng những “món quà” vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng. 

 

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng hàng hoá, sản xuất an toàn, sạch, hữu cơ, xanh, đặc sản, cần có sự tham gia tích cực của người nông dân, của đồng bào dân tộc thiểu số, của cộng đồng dân cư, với vai trò chủ thể. Thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn đã khuyến khích người nông dân tham gia vào các mô hình liên kết, hợp tác, các thiết chế cố kết cộng đồng dân cư. Người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư cùng nhau làm du lịch nông nghiệp - nông thôn; cùng nhau khôi phục làng nghề truyền thống, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá, tài nguyên bản địa.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân, với cách nghĩ mới, cách làm mới, hội tụ tri thức bản địa, văn hoá đặc trưng thì mục tiêu phát triển “Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc” sẽ ngày một gần hơn với con người Yên Bái.

 

- Trong một cuộc trò chuyện với chúng tôi, Anh hùng Lao động, doanh nhân Thái Hương, Chủ tịch Hội đồng chiến lược Tập đoàn TH, Tổng Giám đốc Ngân hàng Bắc Á xúc động trước vẻ đẹp của thiên nhiên tỉnh Yên Bái, nhất là đầm sen Vân Hội và dự định sẽ đầu tư mạnh mẽ vào tỉnh trong thời gian tới. Cũng như ông vừa chia sẻ thì Yên Bái có nhiều thứ nhất, hiếm nơi nào có được. Đó là Khau Phạ - một trong “tứ đại đỉnh đèo”; đó là Mường Lò - một trong bốn thung lũng cánh đồng lúa lớn nhất vùng Tây Bắc “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”; đó là Mù Căng Chải, với vẻ đẹp ngỡ ngàng của ruộng bậc thang; đó là Hồ Thác Bà, được mệnh danh là “vịnh Hạ Long của vùng Tây Bắc”. Gắn với các di sản thiên nhiên đó là một Yên Bái giàu bản sắc văn hóa - nơi hội tụ sắc màu Tây Bắc. Đó là giá trị được kết tinh từ bản sắc của các dân tộc: Người Tày, người Mông, người Thái, người Cao Lan… Thưa ông, để đồng bào, nhân dân Yên Bái nói riêng và đồng bào, nhân dân Tây Bắc nói chung được hạnh phúc hơn, để thu hút được nhiều nhà đầu tư và du khách đến với Yên Bái hơn thì điểm mấu chốt quan trọng nhất cần giải quyết là gì?

Ông Trần Huy Tuấn: Cách thức mà Yên Bái xây dựng hình ảnh và điểm đến đặc thù “Yên Bái - nơi hội tụ sắc màu Tây Bắc”, đặc biệt sau khi du lịch mở cửa trở lại sau dịch bệnh đã dần hình thành các sản phẩm đặc trưng gắn với bản sắc văn hóa truyền thống. Do đó, Yên Bái đã nhanh chóng đón đầu xu hướng dịch chuyển mới của khách du lịch để mở rộng không gian du lịch của mình trong năm 2022 và 8 tháng đầu năm 2023. Tốc độ phát triển du lịch của tỉnh có sự chuyển biến rõ nét, tăng trưởng vượt bậc, đã thu hút được một số dự án đầu tư du lịch với quy mô lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ngày càng tăng về số lượng, chất lượng dịch vụ được cải thiện đáng kể; góp phần tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Năm 2022, lần đầu tiên tỉnh Yên Bái đạt gần 1,6 triệu lượt khách du lịch, vượt 44,4% kế hoạch, trong đó khách quốc tế đạt trên 28.000 lượt, doanh thu trên 1.100 tỷ đồng (tăng 124,5% so với năm 2021). Trong 8 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh đón gần 1,3 triệu lượt khách du lịch, bằng 86% kế hoạch, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó, khách quốc tế 58.625 lượt, bằng 39,1% kế hoạch. Doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 1.028 tỷ đồng, bằng 76,1% kế hoạch, tăng 49,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Đến nay, tỉnh Yên Bái cũng đã quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư cho 21 dự án thuộc lĩnh vực du lịch, tổng vốn đăng ký đầu tư 13.200 tỷ đồng. Tuy nhiên, hiện tại, Yên Bái đang thiếu số lượng lớn các cơ sở lưu trú cao cấp, trong khi xu thế sử dụng các khách sạn từ 3 sao trở lên của khách du lịch đến Yên Bái tăng cao, nhu cầu tổ chức các sự kiện, hội nghị, hội thảo... ngày càng nhiều. Nếu có nhiều dự án đầu tư vào cơ sở lưu trú du lịch cao cấp, du lịch Yên Bái một mặt sẽ đáp ứng nhu cầu của khách tốt hơn, mặt khác góp phần kích thích phát triển loại hình du lịch MICE, là loại hình du lịch sẽ góp phần rất lớn khắc phục tính thời vụ của du lịch.

 

Để thu hút được nhiều nhà đầu tư và du khách đến với Yên Bái, tỉnh xác định một số giải pháp cụ thề như sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TU, ngày 24/02/2021 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số 10/2021/NQ-HĐND, ngày 19/4/2021 của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2025; Đề án xây dựng thị xã Nghĩa Lộ thành thị xã văn hóa, du lịch giai đoạn 2021-2025; Đề án xây dựng huyện Mù Cang Chải thành huyện du lịch giai đoạn 2021-2025; Đề án phát triển du lịch trên địa bàn huyện Trạm Tấu giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030.

Thứ hai, tập trung cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng hình ảnh chính quyền năng động, thân thiện; chuyển tư duy từ "cho phép”, "cấp phép” sang tư duy "phục vụ”, chuyển mạnh từ "tháo gỡ khó khăn” sang "tạo thuận lợi” cho doanh nghiệp. Đặc biệt quan tâm quy hoạch, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, thu hút mạnh đầu tư vào lĩnh vực du lịch; cùng với các Bộ, ngành hoàn thiện Đồ án Quy hoạch khu du lịch Quốc gia Hồ Thác Bà; chú trọng các chính sách thu hút đầu tư, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, đưa du lịch là một trong những trụ cột ưu tiên phát triển, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Ưu tiên dành quỹ đất có vị trí thuận lợi để thu hút đầu tư những tổ hợp du lịch quy mô lớn với các thương hiệu du lịch cao cấp; xây dựng kế hoạch cụ thể tháo gỡ điểm nghẽn trong triển khai các dự án du lịch; rà soát, điều chỉnh quy hoạch bảo đảm phù hợp với thực tiễn, tạo không gian khai thác tối đa, hiệu quả các khu vực phụ cận vùng di sản và các khu vực có tiềm năng phát triển du lịch.

Thứ ba, xây dựng, định vị rõ thương hiệu du lịch Yên Bái, hướng tới hoàn thiện hệ sinh thái du lịch xanh theo chuỗi giá trị, tạo nên hình ảnh và điểm đến đặc thù “Yên Bái - Nơi hội tụ sắc màu Tây Bắc”, với các sản phẩm chủ đạo du lịch sinh thái, chăm sóc sức khỏe, nghỉ dưỡng, hài hòa với thiên nhiên; du lịch trải nghiệm và khám phá, du lịch tìm hiểu văn hóa các dân tộc nhằm thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế và xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng theo hướng tiếp cận các tiêu chuẩn ASEAN.

Thứ tư, ứng dụng công nghệ số trong quảng bá, xúc tiến, khai thác thị trường du lịch; đẩy mạnh marketing trực tuyến nhằm thu hút khách du lịch đến với Yên Bái.

Thứ năm, đầu tư cải tạo, nâng cấp các điểm du lịch đã có; kêu gọi đầu tư phát triển các điểm du lịch mới, trong đó ưu tiên đầu tư phát triển các điểm du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, trải nghiệm, các sản phẩm du lịch văn hóa tộc người, các sản phẩm du lịch cộng đồng; khai thác phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, lễ hội... nhằm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu và kéo dài thời gian lưu trú của du khách.

- Người Yên Bái có tinh thần luôn hướng về nhau, luôn đoàn kết bên nhau, sống hài hoà với thiên nhiên, hài hoà trong mỗi thôn bản. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là, cái ăn, cái mặc của người dân còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội của tỉnh còn nhiều hạn chế. Vậy nhưng, Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX đặt ra mục tiêu “rất lạ” là đến năm 2025, “chỉ số hạnh phúc” trên quê hương của hơn 30 đồng bào dân tộc cùng sinh sống sẽ tăng 15% so với năm 2020. Đã nửa nhiệm kỳ trôi qua, ông cảm nhận ra sao về lượng và chất của mục tiêu này?

Ông Trần Huy Tuấn: Khái niệm về chỉ số hạnh phúc là một khái niệm khá rộng, khá trừu tượng. Hạnh phúc không chỉ thể hiện ở đời sống vật chất mà còn thể hiện ở đời sống tinh thần, được sống trong môi trường an toàn về mọi mặt.

Tỉnh Yên Bái đã đưa “Chỉ số hạnh phúc” vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Đây là một chỉ tiêu mang tính đặc trưng, riêng có của tỉnh Yên Bái nhằm xác định mức độ hài lòng của người dân Yên Bái trên 3 tiêu chí chính: (1) Sự hài lòng về cuộc sống (gồm: Các yếu tố liên quan đến điều kiện sống, việc làm, thu nhập, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội; quan hệ với chính quyền...);  (2) Sự hài lòng về môi trường sống (gồm: Sự quan tâm của chính quyền trong xây dựng cảnh quan đô thị, làng xã; giữ gìn môi trường sinh thái, việc bảo vệ môi trường nước và xử lý nước thải, rác thải; việc bảo vệ rừng và môi trường cây xanh...); (3) Đánh giá về tuổi thọ trung bình và số năm sống khỏe của người dân.

Qua nửa nhiệm kỳ triển khai thực hiện Nghị quyết, kết thúc năm 2022, kết quả khảo sát, đánh giá sự hài lòng của người dân trên địa bàn toàn tỉnh, chỉ số hạnh phúc của người dân là 62,57%, tăng 9,27% so với đầu nhiệm kỳ; đạt Mức 2 - Khá hạnh phúc, vượt 1,37% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong năm.

Cũng phải chia sẻ thêm rằng, để đảm bảo tính khoa học và chính xác của “Chỉ số hạnh phúc”, năm 2022, tỉnh đã xem xét lại việc giao nhiệm vụ điều tra, xác định chỉ số hạnh phúc của người dân Yên Bái cho Cục Thống kê tỉnh để triển khai hết sức bài bản, khoa học trên phạm vi toàn tỉnh. Phương pháp điều tra, đánh giá chỉ số hạnh phúc của Yên Bái đã được Tổng Cục thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho ý kiến thống nhất, đồng tình cao để Cục Thống kê tỉnh Yên Bái triển khai thực hiện. Có thể nói, đây là cách làm mới, đảm bảo tính chính xác do cơ quan thống kê thực hiện đối với sự hài lòng của người dân về các tiêu chí (hài lòng về cuộc sống, hài lòng về môi trường sống, về tuổi thọ trung bình) cũng chính là thước đo chỉ số hạnh phúc của người dân Yên Bái.

 

Từ nội hàm các tiêu chí của Chỉ số hạnh phúc, việc nỗ lực đạt chỉ tiêu Chỉ số hạnh phúc của người dân tăng dần qua các năm, phấn đấu đến hết nhiệm kỳ tăng chỉ số hạnh phúc lên 15% cũng đồng nghĩa với việc tỉnh Yên Bái phải quyết tâm cao độ trong triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; phải có trọng tâm, trọng điểm, phản ánh được sâu sắc, toàn diện ý nghĩa, giá trị nhân văn của việc triển khai thực hiện các giải pháp nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân Yên Bái; nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân các dân tộc trong tỉnh quyết tâm phấn đấu xây dựng cuộc sống ngày càng hạnh phúc hơn.

Việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chỉ số hạnh phúc, tất cả vì cuộc sống hạnh phúc của người dân sẽ làm cho Chỉ số hạnh phúc tiếp tục được định hình rõ nét bằng chính mục tiêu của cấp ủy, chính quyền các cấp “Tất cả vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân”, hướng tới mục tiêu xây dựng “Tỉnh hạnh phúc”.

- Yên Bái sẽ làm gì để vừa thu hút được các nhà đầu tư bất động sản - hạ tầng chiến lược, “biến di sản thành tài sản” phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhưng vẫn bảo tồn được giá trị của di sản văn hóa?

Ông Trần Huy Tuấn: Là tỉnh cửa ngõ vùng Tây Bắc, Yên Bái nằm trên trung điểm của hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, với mạng lưới giao thông đa dạng, kết nối liên hoàn, với nhiều phong cảnh đẹp và hùng vĩ (di tích quốc gia đặc biệt Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, đỉnh Tà Xùa, đèo Khau Phạ, hồ Thác Bà, cánh đồng Mường Lò…). Tỉnh có nhiều di tích văn hóa, lịch sử lâu đời, cùng với văn hóa ẩm thực của các dân tộc và kho tàng văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng, giàu bản sắc, như nghệ thuật Xòe Thái (được UNESCO ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại), múa khèn, hát giao duyên,…

Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương, “biến di sản thành tài sản” phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhưng vẫn giải quyết hài hòa, hợp lý các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, bảo tồn các giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, Yên Bái đã quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc” vào từng chủ trương, quy hoạch và chính sách của tỉnh; được thể hiện đầy đủ, toàn diện trong Quy hoạch tỉnh Yên Bái thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó, chú trọng phát huy giá trị bản sắc văn hóa, di sản trong phát triển kinh tế - xã hội.

Đưa di sản, danh lam thắng cảnh trở thành điểm đến để Yên Bái trở thành điểm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, trải nghiệm của vùng, quốc gia và quốc tế gắn với tiềm năng thiên nhiên phong phú, như: Khu du lịch Quốc gia hồ Thác Bà; danh thắng Quốc gia đặc biệt ruộng bậc thang Mù Cang Chải; suối khoáng nóng Tú Lệ; vùng chè cổ thụ Suối Giàng; các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh cảnh,…

Xây dựng hệ sinh thái du lịch dựa vào văn hóa và dân tộc như tổ chức các hoạt động festival tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc miền núi; quảng bá nghệ thuật xòe Thái - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và nghỉ dưỡng nhằm hướng đến trở thành nơi nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe, thể chất, tinh thần cho người dân trong toàn vùng và quốc gia và quốc tế nhờ hệ thống giao thông thuận lợi, cơ sở lưu trú đa dạng, Ẩm thực đa dạng, đậm đà bản sắc.

Dựa trên chất liệu từ các giá trị tài nguyên trong tỉnh để hình thành 04 vùng không gian trọng điểm du lịch (vùng du lịch hồ Thác Bà và sông chảy; vùng du lịch TP. Yên Bái và phụ cận; vùng du lịch miền Tây của tỉnh; vùng du lịch Bắc Trấn Yên - Văn Yên); 03 tuyến du lịch quan trọng liên vùng (tuyến du lịch sinh thái khám phá miền Tây tỉnh Yên Bái; tuyến du lịch văn hóa sông Hồng; tuyến du lịch hồ Thác Bà và văn hóa Sông Chảy); 09 khu du lịch động lực (khu du lịch Quốc gia hồ Thác Bà; khu du lịch quốc gia Mù Cang Chải; khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Suối Giàng; khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu;...).

 

Huy động, lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc gắn với vùng du lịch như: Văn hóa dân tộc Mông gắn với ruộng bậc thang huyện Mù Cang Chải; vùng chè shan tuyết cổ thụ Suối Giàng; văn hóa dân tộc Thái đen gắn với nghệ thuật Xòe Thái vùng Mường Lò, Nghĩa Lộ; văn hóa dân tộc Dao đỏ gắn với vùng quế Văn Yên; văn hóa dân tộc Dao quần trắng gắn với vùng ven hồ Thác Bà,…

Triển khai có hiệu quả các chính sách về hỗ trợ phát triển du lịch như: (i) Hỗ trợ kinh phí thành lập đôi văn nghệ quần chúng phục vụ sinh hoạt văn hóa, văn nghệ tại các thôn có hoạt động du lịch cộng đồng; (ii) Hỗ trợ truyền dạy trong lĩnh vực văn hóa phi vật thể; (iii) Hỗ trợ duy trì, phát triển làng nghề, nghề truyền thống phục vụ du lịch;...

- Một thị trường bất động sản có khởi sắc và phát triển bền vững hay không đầu tiên phải phụ thuộc vào tốc độ phát triển của hạ tầng giao thông. Với chiến lược đúng đắn trong những năm qua, lãnh đạo tỉnh Yên Bái có tự tin tỉnh đã, đang và sẽ trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn?

Ông Trần Huy Tuấn: Trên cơ sở phát huy tối đa tiềm năng lợi thế sẵn có, trong những năm gần đây, tỉnh Yên Bái đã và đang tập trung huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước. Tập trung ưu tiên đầu tư các công trình trọng điểm, quan trọng, có sức lan tỏa, tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, trọng tâm là hạ tầng giao thông đồng bộ, có tính kết nối cao, nhất là qua tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Xây dựng, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin; tích hợp, đồng bộ cơ sở dữ liệu của trung ương, của tỉnh phục vụ chính quyền điện tử hướng tới chính quyền số, kinh tế số, xã hội số,... Qua đó, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư, tạo động lực tăng trưởng xanh và bền vững. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đang từng bước hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp và kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư kinh doanh hạ tầng các khu, cụm công nghiệp.

Nhận thức rõ tầm quan trọng trong việc phát triển kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông với mục tiêu trò, vai trò “đi trước mở đường”, bảo đảm định hướng đầu tư công theo Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 12/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025. Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, tỉnh Yên Bái đã bố trí hơn 10.244 tỷ đồng đầu tư hạ tầng giao thông, bằng 54,8% kế hoạch, tăng 2 lần so với giai đoạn 2016-2020. Ngoài ra, đã bố trí trên 956 tỷ đồng từ các chương trình mục tiêu quốc gia, bằng 38,2% kế hoạch (kế hoạch là 2.502,1 tỷ đồng) và 757 tỷ đồng từ nguồn sự nghiệp ngân sách tỉnh, bằng 37,7% kế hoạch để đầu tư cho các công trình giao thông.

Với việc đầu tư trên, hạ tầng giao thông của tỉnh trong những năm qua đã có nhiều chuyển mình rõ nét, các tuyến đường cao tốc, quốc lộ qua địa bàn tỉnh; các tuyến đường tỉnh đã được đầu tư đồng bộ, tạo động lực thu hút đầu tư và đón nhiều nhà đầu tư lớn trên các lĩnh vực đầu tư vào tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,... Đến nay, tỉnh Yên Bái có trên 600 dự án đầu tư, với tổng số vốn đăng ký khoảng 91.282 tỷ đồng và 382 triệu USD. Một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn như: Vingroup, TH, EuroWindow, Hoa Sen, APEC, Alphanam, BB Group, Bảo Lai,... đã và đang thực hiện các dự án quy mô lớn, tập trung vào lĩnh vực thế mạnh của tỉnh. Các dự án triển khai đi vào hoạt động sẽ đóng góp tích cực đối với tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của tỉnh, tạo nhiều việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.

- Chúng ta đã chứng kiến những bài học kinh nghiệm khi nhiều địa phương phải trả giá vì phát triển “nóng” về du lịch và bất động sản khiến quy hoạch, cảnh quan bị xâm hại ghê gớm. Ông đánh giá ra sao về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đã đầu tư vào lĩnh vực này của tỉnh trong thời gian vừa qua?

Ông Trần Huy Tuấn: Trong vài năm trở lại đây, tỉnh Yên Bái cũng đã tập trung thu hút và đẩy mạnh phát triển du lịch và các dự án khu đô thị. Các dự án phát triển hạ tầng du lịch quy mô lớn và các dự án bất động sản được tỉnh triển khai đảm bảo đúng trình tự, quá trình triển khai thực hiện không nóng vội, đảm bảo tuân thủ đúng quy hoạch xây dựng đã được phê duyệt. Việc xem xét đánh giá, phê duyệt các quy hoạch xây dựng cũng luôn được xem xét kỹ lưỡng, bảo đảm việc phát triển xanh, bền vững, gắn với giá trị bản sắc và lợi thế của từng địa phương.

Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã và đang triển khai 23 dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị, nhà ở, khu dân cư nông thôn. Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và tiến hành đầu tư, các doanh nghiệp luôn nhận được sự hỗ trợ, đồng hành của các cấp chính quyền. Hầu hết các doanh nghiệp cũng luôn quan tâm đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội với các địa phương thông qua nhiều hoạt động hỗ trợ, tài trợ xây dựng cơ sở vật chất, các chương trình an sinh xã hội.

Trong thời gian tới, chính quyền tỉnh tiếp tục đồng hành, hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai thực hiện đầu tư trên địa bàn; đẩy mạnh hơn nữa trách nhiệm xã hội đối với địa phương trong quá trình triển khai thực hiện dự án đối với các doanh nghiệp.

- Nhiều doanh nghiệp chia sẻ với chúng tôi rằng, từ khi bắt đầu khảo sát dự án, tìm địa điểm đầu tư, lập hồ sơ dự án, cấp phép đầu tư, đều nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các sở, ban, ngành của tỉnh. So với mặt bằng chung, thủ tục pháp lý được tỉnh thực hiện rất nhanh chóng và thuận lợi. Tỉnh Yên Bái đang là điểm đến để hợp tác phát triển, với số vốn cam kết đầu tư lớn. Tỉnh sẽ làm gì để vừa giữ chân được nhiều nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư lớn, có tiềm năng, vừa để các nhà đầu tư thực hiện đúng cam kết, không để các dự án chậm tiến độ phải thu hồi, hoặc xảy ra sai phạm?

Ông Trần Huy Tuấn: Để đón đầu làn sóng dịch chuyển nguồn vốn đầu tư và chuỗi cung ứng vào Việt Nam dưới tác động của dịch Covid-19 và sự bất ổn của tình hình thế giới, Yên Bái sẽ chú trọng đẩy mạnh triển khai các giải pháp căn cơ nhằm thu hút các nhà đầu tư mới, giữ chân các nhà đầu tư hiện có nhất là nhà đầu tư lớn, tiềm năng, bảo đảm các nhà đầu tư thực hiện đúng cam kết, không để xảy ra tình trạng phải thu hồi dự án do chậm tiến độ hoặc xảy ra sai phạm, cụ thể:

- Một là, cần sớm rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm đồng bộ về đầu tư, đất đai, đấu thầu, kinh doanh bất động sản,… Do có sự thay đổi quy định pháp luật về hình thức lựa chọn nhà đầu tư đối với loại hình dự án (dự án sử dụng đất thương mại dịch vụ, dự án đô thị mới) theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Nhà ở nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể của Trung ương về phương pháp xác định các tiêu chí dẫn đến tình trạng lúng túng trong việc xem xét các ý tưởng quy hoạch.

- Hai là, thực hiện hiệu quả, đồng bộ quy hoạch tỉnh gắn với quy hoạch ngành, tạo “quỹ đất sạch”, chuẩn bị tốt các điều kiện hạ tầng kỹ thuật, đất đai, nguồn nhân lực để kịp thời nắm bắt thời cơ, thu hút nguồn lực bên ngoài, đón đầu làn sóng dịch chuyển nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các sở, ngành, địa phương giúp nhà đầu tư tiếp cận quy hoạch ngành, quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng trong bước đầu nghiên cứu khảo sát để có cái nhìn tổng thể khu vực đầu tư dự án.

- Ba là, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành, địa phương trong tất cả các khâu của quá trình thu hút đầu tư; nâng cao hiệu quả của Tổ rà soát tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai các dự án đầu tư nhằm đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công các dự án.

- Bốn là, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, các hệ thống thông tin, tích hợp, đồng bộ cơ sở dữ liệu của Trung ương, của tỉnh phục vụ chính quyền điện tử hướng tới chính quyền số; tích hợp, chia sẻ thông tin qua mạng rộng khắp giữa các cơ quan phục vụ công tác quản lý nhà nước, nâng cao mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp. Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới tư duy quản lý chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.

- Năm là, lựa chọn nhà đầu tư có đủ năng lực (tài chính, quản lý dự án,...), đầu tư vào lĩnh vực phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh; duy trì phong trào “Ngày cuối tuần cùng doanh nghiệp”, chương trình “Cà phê doanh nhân” để tạo cơ hội đối thoại cởi mở, mang tính xây dựng giữa các cấp chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư để kịp thời nắm bắt, giải quyết khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình triển khai dự án đầu tư.

- Đâu là những điểm nhấn quan trọng trong Quy hoạch tỉnh Yên Bái thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thưa ông?

Ông Trần Huy Tuấn: Xác định công tác lập quy hoạch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tạo ra khung pháp lý cao nhất và là công cụ quan trọng để kiến tạo không gian phát triển mới, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tỉnh Yên Bái đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch, đưa nội dung này đi trước một bước theo từng giai đoạn, ngành, lĩnh vực cụ thể, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển cân đối, hài hòa, hiệu quả và bền vững, bảo đảm phù hợp với định hướng, tầm nhìn, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và đất nước.

Với tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, dự báo xu hướng phát triển để khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, Yên Bái đã tích cực xây dựng, triển khai nhiều đồ án quy hoạch đảm bảo tính khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn, phát huy nội lực, thu hút ngoại lực.

Đây là tiền đề quan trọng để kiến tạo không gian phát triển mới, đưa Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh và thịnh vượng. Từ thực tế, Quy hoạch tỉnh Yên Bái thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định hình thành 2 trung tâm động lực tăng trưởng, 3 vùng kinh tế, 4 trụ cột tăng trưởng, 6 trục liên kết động lực và 12 ý tưởng đột phá.

Nhìn nhận được tiềm năng, lợi thế và tận dụng những cơ hội trong bối cảnh phát triển mới, Quy hoạch tỉnh Yên Bái đặt quan điểm phát triển theo hướng "Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc". Theo đó, Yên Bái là tỉnh có hệ sinh thái đa dạng, nền kinh tế phát triển toàn diện, chất lượng cuộc sống của người dân ở mức khá của cả nước.

Theo hướng này, Yên Bái sẽ duy trì môi trường sinh thái bền vững; thúc đẩy kinh tế phát triển đồng đều theo hướng gia tăng giá trị và năng suất; trở thành là điểm đến du lịch hấp dẫn và thân thiện; nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện ở mọi mặt - hình thành nên một cộng đồng đáng sống.

Yên Bái sẽ hình thành 2 trung tâm động lực tăng trưởng là thành phố Yên Bái và phụ cận; thị xã Nghĩa Lộ và phụ cận; 3 vùng kinh tế là vùng kinh tế trung tâm; vùng kinh tế phía Đông; vùng kinh tế phía Tây. Quy hoạch tỉnh xác định 4 trụ cột tăng trưởng kinh tế, đó là: công nghiệp chế biến chế tạo; du lịch; kinh tế dịch vụ; nông - lâm nghiệp.

Trong đó, trụ cột công nghiệp chế biến chế tạo được xác định là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế. Quy hoạch tỉnh Yên Bái đưa ra 3 kịch bản phát triển thời kỳ 2021 - 2030. Trên cơ sở dự báo các yếu tố thuận lợi, khó khăn, thách thức cũng như tiềm năng, lợi thế, Quy hoạch đã lựa chọn kịch bản tăng trưởng nhanh.

Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GRDP thời kỳ 2021 - 2030 đạt bình quân 8,5%/năm. Về cơ cấu kinh tế đến năm 2030, tỷ trọng khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GRDP chiếm 14,8%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 39,0%; khu vực dịch vụ chiếm 41,5%.

Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 125 triệu đồng/người, tương đương khoảng 4.400 USD/người. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển cần huy động khoảng 280 nghìn tỷ đồng. Theo kịch bản đã xác định quy hoạch tỉnh xây dựng 6 trục liên kết động lực: trục động lực cao tốc Nội Bài - Lào Cai; trục dọc quốc lộ 32; trục dọc quốc lộ 70; quốc lộ 32D, CT12; trục Mường La - Mù Cang Chải - Văn Chấn - Văn Yên - ĐT 166, 164, 171; quốc lộ 37...

Từ thực trạng phát triển, tiểm năng, động lực, bối cảnh và xu hướng phát triển của quốc tế, cả nước và của tỉnh, Yên Bái hội tụ điều kiện để phát triển từ nền kinh nông nghiệp dần qua nền kinh tế công nghiệp và hướng tới nền kinh tế dịch vụ trong tương lai.

Với yếu tố về đất đai và lao động là hữu hạn, để hướng tới nền kinh tế công nghiệp phát triển Yên Bái phải tập trung toàn lực thu hút, phát triển về vốn và công nghệ. Phấn đấu đến năm 2050 Yên Bái sẽ là một tỉnh có nền kinh tế phát triển dựa vào công nghiệp (tập trung chế biến sâu các sản phẩm nông lâm sản; vật liệu xây dựng cao cấp), nông nghiệp công nghệ cao, du lịch dịch vụ và đầu mối giao thông, logistics cấp vùng.

Để hướng tới nền kinh tế công nghiệp với hình ảnh Yên Bái "Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, Yên Bái sẽ thực hiện 4 trụ cột chiến lược làm định hướng, kim chỉ nam đó là: Chính quyền kiến tạo; dân trí nâng cao; môi trường bền vững; hạ tầng thông minh.

Đối với trụ cột chính quyền kiến tạo, chính quyền chuyển từ "chèo đò” sang "lái đò”, với quan điểm Nhà nước chỉ làm những gì mà khu vực tư nhân không làm được hoặc không được làm; cung ứng "hàng hóa công” - hàng hóa thị trường không cung ứng hay cung ứng không đầy đủ; cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công chức, ưu tiên tập trung nâng cao chỉ số PCI, PAPI, ICT, SAPI; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đảm bảo chất lượng theo hướng chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức và năng lực công tác, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân…

Trụ cột dân trí nâng cao - nâng cao GRDP bình quân đầu người; giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo các cấp; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; lao động có tay nghề; giảm khoảng cách giáo dục giữa thành thị - nông thôn - các khu vực vùng sâu, vùng xa; nâng cao chỉ số bác sĩ/1 vạn dân và chỉ số giường bệnh/1 vạn dân; phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng…

Trụ cột môi trường bền vững - phát triển các ngành kinh tế gắn với ứng dụng khoa học công nghệ cao và bảo vệ  môi trường sinh thái; xây dựng môi trường kinh doanh thân thiện; bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị bản sắc văn hóa của người Yên Bái; các khu vực danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, lễ hội truyền thống; nâng cao trách nhiệm quản lý của Nhà nước và ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người dân; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ rừng gắn với phát triển kinh tế…

Trụ cột hạ tầng thông minh - tập trung từng bước xây dựng hạ tầng thông minh để hướng tới đô thị thông minh với 3 trụ cột chính: công nghệ, con người và quản trị; từng bước ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và phát triển kinh tế; nâng chất lượng cuộc sống người dân, nguồn nhân lực trong điều kiện phát triển kinh tế mới; xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số…

- Đâu là đột phá phát triển để thực hiện Quy hoạch này?

Ông Trần Huy Tuấn: Những đột phá quan trọng được tỉnh xác định là:

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả gắn với tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; đẩy mạnh chuyển đối số, cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế.

Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là nâng cao chất lượng nhân lực khu vực nông nghiệp, nông thôn, nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển dịch vụ đào tạo gắn với nghiên cứu và triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, từng bước đưa dịch vụ khoa học - công nghệ trở thành lĩnh vực đóng góp quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của tỉnh.

Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư, trước hết là đầu tư công; thu hút tối đa nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng giao thông (giao thông liên kết nội vùng, liên kết với vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Thủ đô Hà Nội), thủy lợi; hạ tầng đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, chuyển đối số; hạ tầng liên kết nông thôn với đô thị, liên kết nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu phát triển; sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản...

- Trong chuyến công tác năm 2022 tại Yên Bái, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị tỉnh Yên Bái cần tiếp tục lấy sông Hồng làm trục không gian phát triển. Điều này được thể hiện ra sao trong tầm nhìn và chiến lược phát triển của tỉnh Yên Bái, thưa ông?

Ông Trần Huy Tuấn: Yên Bái xác định phát huy, sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế vị trí địa lý là động lực phát triển của tỉnh, nằm trên trung điểm của hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cùng với mạng lưới giao thông đa dạng (đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường bộ, đường sắt, đường thủy), với trục không gian phát triển sông Hồng, tỉnh Yên Bái tiếp tục nghiên cứu đầu tư:

(1) Phát triển một số khu, cụm công nghiệp, với tổng diện tích khoảng 2.000 ha bên hữu ngạn sông Hồng, dọc theo tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai.

(2) Mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, không gian đô thị thành phố Yên Bái ra vùng phụ cận, tập trung phát triển đô thị dọc hai bên sông Hồng và mở rộng không gian đô thị về phía hữu ngạn sông Hồng. Hình thành thêm một số khu chức năng và khu đô thị mới, như: Giới Phiên, Hợp Minh theo hướng đô thị xanh, đô thị sinh thái, đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu ở mới cho dân cư, người lao động và thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn về dịch vụ, thương mại, công nghiệp và xây dựng.

(3) Đẩy mạnh phát triển tuyến du lịch đường thủy nội địa trên sông Hồng để giao thông thực sự là “sợi dây” kết nối hoạt động của du lịch và là “đòn bẩy” để du lịch phát triển”, như: Tuyến du lịch văn hóa sông Hồng (theo tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai); tuyến du lịch kết nối hệ thống di tích gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu dọc sông Hồng (Bảo Hà, Lào Cai - Đông Cuông, Yên Bái - Hạ Hòa, Phú Thọ);

(4) Thu hút đầu tư xây dựng trung tâm logistics hạng II khu vực cảng Văn Phú kết nối thuận lợi với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, tuyến đường thủy nội địa trên sông Hồng.

- Thành hay bại trong việc thực hiện các chiến lược phát triển gốc rễ vẫn nằm ở công tác cán bộ. Nhất là với những người lãnh đạo, phải dám nghĩ, dám làm, dám đột phá. Với những chiến lược phát triển mới đầy tham vọng và thách thức được thể hiện trong Quy hoạch tỉnh Yên Bái, ông có tin năng lực cán bộ của tỉnh Yên Bái có đủ khả năng thực thi những chiến lược đó thành công?

Ông Trần Huy Tuấn: Như chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, bởi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Trong những năm qua, Yên Bái luôn coi công tác cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có vị trí then chốt trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Nghị quyết Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh xác định một trong những khâu đột phá và nhiệm vụ trọng tâm nhiệm kỳ 2020 - 2025 là phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

 

Yên Bái đã quan tâm tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp trong công tác cán bộ, nhất là việc thực hiện có hiệu quả công tác tuyển chọn cán bộ. Tiếp tục đổi mới cơ chế, cách thức tuyển chọn theo hướng mở rộng, minh bạch để lựa chọn cán bộ có tố chất, triển vọng, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn, đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; tạo điều kiện thu hút, lựa chọn được người có tài năng vào làm việc, cống hiến trong cơ quan Nhà nước.

Ngày 20/01/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TU về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Yên Bái giai đoạn 2021-2025. Sau 02 năm thực hiện, công tác phát triển nguồn nhân lực đã bước đầu đạt được những kết quả tích cực: Năm 2022, tỷ lệ cán bộ, công chức cấp tỉnh có trình độ trên đại học trở lên đạt 26,24% (vượt 5,24% so với kế hoạch); tỷ lệ cán bộ, công chức cấp huyện có trình độ trên đại học trở lên đạt 19,11% (vượt 7,11% so với kế hoạch); Tỷ lệ công chức làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ từ cấp tỉnh đến cấp huyện có trình độ đại học trở lên đạt 97,53%; tỷ lệ công chức làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ cấp xã có trình độ đại học trở lên là 82,7%. Tỷ lệ cán bộ công chức có trình độ sau đại học tăng (thạc sỹ, tiến sỹ), đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực và yêu cầu công tác quản lý. Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã được nâng cao về chất lượng, tỷ lệ cán bộ công chức cấp xã có trình độ từ trung cấp trở lên vượt so với mục tiêu Nghị quyết, góp phần nâng cao năng lực cán bộ cấp cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ.

Đặc biệt, Yên Bái đã xây dựng, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án số 11-ĐA/TU của Tỉnh ủy về “Xây dựng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý đến năm 2030, định hướng đến năm 2035”. Đến nay, tổng số cán bộ tham gia Đề án (bao gồm cả số đã tuyển chọn năm 2018 sau khi rà soát, sàng lọc và số mới tuyển chọn, bổ sung năm 2022) là 192 người (92 trẻ, 45 nữ, 55 dân tộc thiểu số). Đã thực hiện việc sắp xếp, bố trí, điều động, luân chuyển, đào tạo cán bộ tham gia Đề án để đáp ứng yêu cầu về xây dựng và tạo nguồn cán bộ của tỉnh trong những năm tiếp theo.

Ngay sau Lễ công bố Quy hoạch tỉnh Yên Bái, các chương trình, đề án, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, các quy hoạch có tính chất chuyên ngành sẽ tiếp tục được tỉnh ban hành kế hoạch, giao nhiệm vụ cho từng cấp, từng ngành, theo lộ trình, thời gian gắn với từng sản phẩm cụ thể, bảo đảm tính thống nhất, khoa học, bền vững, làm căn cứ huy động hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của quy hoạch phát triển tỉnh Yên Bái theo hướng "Xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc”, góp phần cùng các tỉnh, thành xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hội nhập và phát triển.

 

Với những con số biến động không ngừng theo chiều hướng tích cực về công tác cán bộ nêu trên, tôi tin tưởng rằng cán bộ của tỉnh Yên Bái có đủ khả năng thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng tỉnh Yên Bái phát triển "Xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, đưa Yên Bái trở thành tỉnh phát triển khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm tỉnh phát triển hàng đầu của vùng trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2030.

- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!

Nguyễn Thành Công
26/09/2023 06:08
Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top