Aa

Doanh thu suy giảm nghiêm trọng, hàng tồn kho cần gần 150 năm mới bán hết, doanh nghiệp BĐS lấy gì để tái đầu tư?

Thứ Ba, 07/11/2023 - 06:04

Theo Ban IV, trong bối cảnh tổng cầu suy giảm, BĐS là một trong những ngành đối diện với khó khăn nghiêm trọng khi doanh thu "lao dốc" từ giữa năm 2022 đến nay, cá biệt có DN số ngày tồn kho lên đến hàng trăm năm.

Theo báo cáo của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) về áp lực dòng tiền của doanh nghiệp và kiến nghị một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn tới, vấn đề lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải hiện nay là doanh thu giảm, liên quan đến tổng cầu của thị trường trong nước và quốc tế.

Điều này gây ra khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp trong bối cảnh tiếp cận thị trường vốn không dễ dàng liên quan đến những vấn đề của thị trường trái phiếu, cổ phiếu và tiếp cận tín dụng từ ngân hàng.

 Doanh nghiệp bất động sản và xây dựng gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền  

Báo cáo nhận định dựa trên kết quả phân tích sơ bộ báo cáo tài chính của 1.579 doanh nghiệp (DN) niêm yết trên 3 sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam (chia thành 10 ngành cụ thể) trong thời gian từ 2018 đến 6 tháng đầu năm 2023.

Ban IV đánh giá, DN Việt dù đã niêm yết nhưng vẫn có đặc trưng là vốn chủ sở hữu mỏng, các hoạt động dựa nhiều trên vốn vay. Do đó, khi huy động vốn gặp khó khăn, DN sẽ gặp khó khăn ngay lập tức. Trong bối cảnh suy giảm đơn hàng, khó huy động vốn qua trái phiếu, cổ phiếu, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng, dòng tiền trở thành vấn đề cấp thiết nhất của DN.

Theo đó, doanh thu của các ngành giảm từ giữa năm 2022 đến nay, nghiêm trọng nhất là hai ngành bất động sản và xây dựng.

Đáng lưu ý là đến hết quý II/2023, tình hình vẫn chưa được cải thiện. Doanh thu 6 tháng đầu năm 2023 của 8/10 ngành đều thấp hơn cùng kỳ năm 2022, chỉ có ngành CNTT là tăng quy mô và ngành hàng và dịch vụ tiêu dùng giữ nguyên quy mô doanh thu so với cùng kỳ.

Ngành nào có tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu lớn thì càng gặp khó khăn như xây dựng: 1,14 lần; hàng và dịch vụ tiêu dùng: 0,78 lần; bất động sản: 0,62 lần và vật liệu xây dựng: 0,62 lần.

Số ngày tồn kho trung bình của DN bất động sản quý I/2023 lên đến 5.662 ngày. 

Cá biệt có DN có số ngày tồn kho lên đến 54.334 ngày, hay với tình hình bán hàng như hiện tại, DN phải mất 149 năm mới bán hết giỏ hàng.

Có thể thấy rằng tình hình thực tế rất khó khăn khi thời gian phải thu và tồn kho của nhiều đơn vị lên đến hàng chục năm - cho thấy tình hình bán hàng vẫn rất trầm lắng.

Khi so sánh chi phí lãi vay so với lợi nhuận sau thuế của DN thì thấy tỷ lệ rất đáng kể. Năm 2022, ngành xây dựng có tỷ lệ chi phí lãi vay so với lợi nhuận cao nhất, lên đến 375%, tiếp đó là hàng và dịch vụ tiêu dùng 44,8% và bất động sản 40,2%.

Ban IV nhận định: “Điều này hàm ý, khi kinh doanh, DN chịu rủi ro chính nhưng thành quả được hưởng không nhiều, bị xói mòn do chi phí tài chính nên không có tích lũy để tái đầu tư”.

Đặc biệt, DN xây dựng và bất động sản gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền khi số ngày phải thu (là thời gian bình quân để thu hồi công nợ sau khi DN bán hàng) và số ngày tồn kho tăng lên nhiều lần.

Số ngày phải thu trung bình của DN xây dựng quý I/2022 là 463 ngày thì sang quý I/2023 lên đến 1.165 ngày. Dù hết quý II/2023 giảm xuống còn 598 ngày nhưng cũng cho thấy áp lực dòng tiền của DN Xây dựng. Số ngày tồn kho trung bình quý I/2023 lên đến 4.527 ngày, so với 661 ngày của quý I/2022.

Bên cạnh đó, số ngày tồn kho trung bình của DN bất động sản quý I/2023 cũng lên đến 5.662 ngày, cá biệt là có DN có số ngày tồn kho lên đến 54.334 ngày, hay với tình hình bán hàng như hiện tại, DN phải mất 149 năm mới bán hết giỏ hàng.

Liên quan đến chi phí thuế, Ban IV cho biết 1/4 nhóm DN có quy mô nhỏ nhất 3 sàn có áp lực lớn nhất. Năm 2020, tỷ lệ chi phí thuế/lợi nhuận sau thuế lên đến 51,5%. Năm 2022, đa số DN nhóm này đều lỗ.

Doanh nghiệp xây dựng và bất động sản gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền khi số ngày phải thu và số ngày tồn kho tăng lên nhiều lần. (Ảnh minh họa)

Các NHTM cần nhìn vào khả năng trả nợ tương lai của doanh nghiệp để tăng cơ hội tiếp cận tín dụng

Căn cứ trên kết quả phân tích các DN niêm yết, đồng thời, xuất phát từ thực tiễn kinh doanh, sản xuất của DN và bối cảnh trong nước, thế giới hiện nay, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân kiến nghị một số giải pháp sau:

Thứ nhất, các chính sách trước mắt cần tập trung vào hỗ trợ dòng tiền thông qua (1) Hỗ trợ tiếp cận vốn và (2) Giãn, giảm chi phí cho DN.

“Trong cơ cấu chi phí của DN, chi phí vận hành là trách nhiệm của DN và để cứu mình, nhiều DN đã phải chủ động cắt giảm chi phí, giảm quy mô hoạt động và quy mô lao động. Các phần chi phí khác như chi phí lãi vay, chi phí thuế - phí, chi phí bảo hiểm xã hội... nằm trong không gian chính sách của Nhà nước”, Báo cáo của Ban IV nêu.

Do đó, Chính phủ có thể đặt trọng tâm vào việc thực hiện các chính sách giúp DN tiếp cận vốn hiệu quả; giãn, giảm chi phí, tạo dòng tiền ngắn hạn ít nhất trong nửa cuối năm 2023 hoặc nửa đầu năm 2024 tùy độ trễ của chính sách.

Để thực hiện hiệu quả các biện pháp này, cần có cách tiếp cận vừa tổng thể về hỗ trợ DN vừa phải phân tích bài toán theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể.

Thứ hai là liên quan đến chính sách tiền tệ.

Hiện tại, theo các kịch bản vĩ mô, FED đang tiến tới giai đoạn cuối cùng của chu kỳ tăng lãi suất; lạm phát trong nước không quá căng thẳng. Sau 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều có chiều hướng giảm.

Tuy nhiên, trọng tâm chính sách là lãi suất cho vay phải giảm thực sự để hỗ trợ DN vì lãi suất cho vay hiện tại dù đã giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao so với các nước khác.

"Trong bối cảnh phục hồi, các ngân hàng thương mại cần nhìn vào khả năng trả nợ tương lai của DN để tăng cơ hội tiếp cận tín dụng chứ không chỉ nhìn vào tài sản thế chấp".

Đồng thời, trong bối cảnh phục hồi, các ngân hàng thương mại cần nhìn vào khả năng trả nợ tương lai của DN để tăng cơ hội tiếp cận tín dụng chứ không chỉ nhìn vào tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, cần ưu tiên lãi suất thấp hơn cho các DN xuất khẩu, các DN vừa và nhỏ. Các ngành có nhiều rủi ro cần chấp nhận lãi suất cao hơn.

Báo cáo nhấn mạnh: “Riêng đối với lĩnh vực bất động sản, hệ thống ngân hàng có thể cân nhắc cho phép các DN cung cấp sản phẩm thuộc phân khúc phục vụ nhu cầu thiết yếu, ưu tiên như hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội, khu công nghiệp, văn phòng… được giãn nợ, giữ nhóm nợ theo tinh thần thông tư 02/2023/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước”.

Thứ ba là liên quan đến chính sách tài khóa.

Có thể thấy nội lực DN suy yếu, lại phải đối mặt nhiều khó khăn do tổng cầu giảm nên việc hấp thụ vốn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, bên cạnh chính sách tiền tệ đã không còn nhiều dư địa do lãi suất toàn cầu neo ở mức cao và chênh lệch lãi suất sẽ gây áp lực lên tỷ giá, cần xem xét thực hiện chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để thúc đẩy tổng cầu, bao gồm các khía cạnh:

Một là đẩy mạnh đầu tư công, tập trung vào các cơ sở hạ tầng lớn, vừa để hỗ trợ các DN ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, vừa nâng cao năng lực của quốc gia; chú trọng phát triển nhà ở xã hội để đáp ứng nhu cầu thực của người lao động và hỗ trợ các DN bất động sản.

Hai là xem xét các giải pháp giãn, giảm áp lực thuế và chi phí khác, tạo dòng tiền ngắn hạn cho DN vì đây là thời điểm phải “khoan thư sức dân”.

Trong đó, một số chủ trương, chính sách đã ban hành, cần tiếp tục thực hiện theo định hướng nêu trên như: Các chính sách giãn chu kỳ đóng thuế theo tinh thần Nghị định số 12/2023/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất năm 2023; Chính sách giảm thuế VAT theo Nghị quyết số 101/2013/QH15 để giảm bớt khó khăn dòng tiền, đồng thời kích cầu tiêu dùng trong nước; Các chỉ đạo của Chính phủ về tháo gỡ vướng mắc trong hoàn thuế giá trị gia tăng cho các DN...

Cần chú trọng phát triển nhà ở xã hội để đáp ứng nhu cầu thực của người lao động và hỗ trợ các doanh nghiệp bất động sản. (Ảnh minh họa: Vietnam+)

Về một số vấn đề có ảnh hưởng tới chi phí của diện rộng DN, Ban IV kiến nghị:

Trong ngắn hạn, Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan không ban hành các quy định làm phát sinh các loại phí, chi phí mới cho DN ít nhất trong nửa cuối năm 2023 và có thể cả nửa đầu năm 2024.

Trong giai đoạn từ đầu năm 2024, với các quy định có thể làm phát sinh chi phí của DN, cần các đánh giá tác động thật thấu đáo và toàn diện trước khi hiện thực hóa.

Đối với khoản thu “Kinh phí công đoàn” đang chiếm 2% quỹ lương DN trả cho người lao động, đề xuất Chính phủ đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xem xét sửa Quy chế tài chính nội bộ cho phép DN giữ lại toàn bộ 2% này trong ít nhất 2 năm tới để tập trung chi trực tiếp cho người lao động; các năm tiếp theo cũng giảm dần mức đóng góp cho công đoàn cấp trên thay vì tỷ lệ đóng như hiện nay.

Trong trung hạn, xem xét chưa tăng căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi.

Trong dài hạn, cần tiếp tục có những phân tích để thiết kế chính sách thuế thu nhập DN hiện đại hơn, phù hợp với từng nhóm quy mô doanh thu và ngành nghề DN để vừa đảm bảo mục tiêu tăng thu ngân sách vừa đảm bảo việc phát triển nội lực DN, giúp các DN nhỏ, vừa có cơ hội vươn mình.

Thứ tư, liên quan đến chính sách hỗ trợ DN vừa và nhỏ: cần phát huy thực chất vai trò của Quỹ Phát triển DN nhỏ và vừa (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Quỹ bảo lãnh tín dụng DN nhỏ và vừa tại các địa phương để tăng cường các hình thức tín chấp, hỗ trợ các DN nhỏ và vừa tiếp cận vốn và tham gia thị trường hiệu quả.

Mặt khác, cần quan tâm đặc biệt các giải pháp thúc đẩy và hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh cho nhóm chủ thể này vì DN vừa và nhỏ cũng phải đối diện với các quy định, yêu cầu mới từ thị trường ngay trong 2023 và các năm tiếp theo trong bối cảnh nhận thức, năng lực, nguồn lực chuyển đổi đều còn rất hạn chế.

Cuối cùng, để giải quyết một cách dài hạn các vấn đề khó khăn của DN, một trong các giải pháp cần đặc biệt lưu tâm là phát triển thị trường vốn hiện đại, đáp ứng chuẩn mực quốc tế nhằm dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế, tránh để tăng trưởng quá phụ thuộc vào tín dụng, với một số khía cạnh:

Chấn chỉnh thị trường trái phiếu DN bằng việc trả về đúng định nghĩa “Nhà đầu tư chuyên nghiệp”, cụ thể, hạn chế tối đa hoặc thậm chí cấm sự tham gia các Nhà đầu tư cá nhân thị trường phát hành riêng lẻ như thông lệ quốc tế.

Đẩy nhanh tiến độ để nâng hạng thị trường chứng khoán làm kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế để giải bài toán căn cơ, dài hạn./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top